30/3/09

THÁI HÀ: PHÉP LẠ TỪ NHỮNG ĐÔI GIÀY CAO GÓT

.

Đầu năm 2008, tôi ở tại một chung cư trên đường Nguyễn Thái Học, quận 1, Sài Gòn. Nói là chung cư nhưng thật ra đây là nhà riêng của một gia đình có tiếng giàu có xây từ thời Pháp. Sau năm 1975 nhà bị tịch biên và trở thành chung cư do Nhà nước quản lý. Nhà để xe của căn nhà này thì biến thành hẽm chung, các phòng nghỉ trong nhà từ tầng trệt lên tầng 1, sân thượng cũng được cất thêm mấy dãy phòng ở, tất cả trở thành những căn hộ gia đình bé như cái hộp quẹt. Vì là kiến trúc cũ nên nó cũng rất cũ kỹ, cấu trúc không phù hợp với cuộc sống văn minh đô thị như: không có chổ để xe, không có thang máy, cầu thang bộ nhỏ hẹp và tối, không có lối thoát hiểm, mỗi tầng có một khu nhà nhà vệ sinh dùng chung cho cả mấy chục hộ. Bước vào nhà là phải đóng sập cửa lại kín mít để chống mùi hôi từ phía nhà vệ sinh tập thể tỏa ra suốt ngày đêm.

Những điều bất tiện khác thì cũng có thể tặc lưỡi mà cho qua, riêng cái khoản không có chổ để xe thì quá oải. Mỗi ngày đi làm, tôi phải gởi xe ở bãi xe gần khách sạn New World rồi đi bộ hơn 1 km về nhà, leo cầu thang lên đến lầu 2 mới vào được nhà mình.

Buổi sáng từ nhà ra đến bãi đậu xe trung bình mất 20 phút, buổi chiều uể oải hơn nên vừa đi vừa ngó trời ngó đất, mất 30 phút hoặc hơn nữa mới về đến nhà. Ngày đầu tiên đi bộ về bằng đôi giày da cao gót nên tôi bị phồng dộp, đau hết cả hai bàn chân. Hôm sau tôi phải mua đôi giày thể thao và hơn chục đôi vớ (dùng suốt cả tuần) mất hơn 400 ngàn để ngày ngày "chiến đấu" với đoạn đường từ nhà ra bãi xe và bãi xe về nhà.

Tôi có thể đi bộ liên tục hơn chục cây số với điều kiện đi bằng giày thể thao loại tốt, nhưng đi bộ hơn hai chục cây số trên đôi giày cao gót là điều có nằm mơ tôi cũng không bao giờ nghĩ đến. Cho đến khi nhìn thấy hình của bà Việt, bà Dung và các bà, các chị, các em giáo dân trong ngày xét xử phúc thẩm (27/3/2009) ở Hà Đông, tôi thật sự kinh ngạc quá đỗi và vô cùng khâm phục họ. Bởi lẽ họ đã đi bộ một quảng đường thật dài hơn 12 km trên những đôi giày cao gót, nếu tính cả đường đi lẫn đường về thì hơn 24 km. Tôi nhớ đến cái cảm giác lê bước hơn 1 km trên đôi giày cao gót để về nhà đã khó chịu như thế nào, nay nhìn cái cột cây số Hà Đông - Hà Nội 12 km mà tôi phát hoảng.

Các bà, các chị, các em gái đã hiên ngang, hồ hởi dấn bước trên những đôi giày cao gót ấy, nếu trong lòng họ không có một nghị lực phi thường, một niềm tin mạnh mẽ, một ý chí kiên cường để vượt qua nỗi đau thể xác thì họ không thể đến được Hà Đông, càng không thể trở về Thái Hà với những gương mặt hân hoan và nụ cười rạng rỡ. Phải chăng trên con đường họ đi đòi Công Lý và Sự Thật ấy Thiên Chúa đã dang tay che chở, đã ban cho họ phép lạ "đôi hài vạn dặm", giúp họ vượt qua mọi thử thách khó khăn một cách bình an?

Tạ Phong Tần


Photobucket
Bà Nguyễn Thị Việt (đi đầu), chị Ngô Thị Dung, bà Lê Thị Hợi

Photobucket
Chị Ngô Thị Dung (áo dài đỏ)

Photobucket
Không những cao gót mà còn là gót nhọn nữa nhá! Oách thiệt!

Photobucket
Đoàn người khởi hành tiến về phía Hà Đông

Photobucket
Chị Nguyễn Thị Nhi


Ảnh: Website Dòng Chúa Cứu Thế Việt NamGiáo xứ Thái Hà
.

28/3/09

"RỬA MẮT" MIỄN PHÍ

.
Đối diện dãy phòng nghỉ của các Thầy nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế (38 Kỳ Đồng, quận 3, Sài Gòn) là "CÂU LẠC BỘ BƠI LỘI VÀ KHIÊU VŨ" ngày đêm tiếng nhạc vọng vào inh ỏi. Nghe nói khu đất này trước đây thuộc Tu viện Dòng Chúa Cứu Thế. Sau đó "được" Nhà nước ta "biến hóa" nó thành cái Câu Lạc Bộ nói trên.

Photobucket

Đặc biệt là khu vực "bơi dành riêng cho phụ nữ" đưa "mặt tiền" ngay con mắt của các Thầy (tu sĩ) "trẻ người non dạ".

Photobucket

Photobucket

Photobucket

Khu dành cho nam thì sát chân tường, có cố ngểnh cổ nhìn cho lắm cũng không thấy gì.

Các Thầy tha hồ nghe nhạc giật, "rửa mắt" miễn phí từ sáng sớm đến tối, "sướng" nhé, hổng cảm ơn người đã "nàm ra" cái CLB í mà còn kêu ca cái gì nữa.

Tạ Phong Tần
.

27/3/09

CHUYỆN HÀI MỚI NHẤT TRONG NGÀY 27-3-2009

.
Trưa nay (27/3/2009), Ls Lê Trần Luật mới nhận được Thông báo phiên tòa phúc thẩm của Tòa án thành phố Hà Nội.

Nhìn mắc cười không chịu được. Cả 2 tờ thông báo đều do 1 người là Thẩm phán Nguyễn Quốc Hội ký, cùng một vụ án, cùng một địa chỉ nhận Thông báo là Văn phòng Luật sư Pháp Quyền, nhưng lại ký khác ngày và gởi khác ngày, khác cả cách gởi. Dĩ nhiên, như thế thì ngày nhận cũng sẽ khác xa nhau.


Photobucket

Thông báo cho Ls Huỳnh Văn Đông ký ngày 19/3/2009

Photobucket

Gởi chuyển phát nhanh cùng ngày 19/3/2009, nhận được ngày 21/3/2009

Photobucket

Thông báo gởi cho Ls Lê Trần Luật ký ngày 18/3/2009 (trước Thông báo cho Ls Đông 1 ngày)

Photobucket

Nhưng lại gởi cho Ls Luật ngày 20/3/2009 (sau khi gởi cho Ls Đông 1 ngày) bằng... thư thường, ngày 26/3/2009 mới đến Bưu điện Sài Gòn, trưa 27/3/2009 đến VPLS, tức sau khi phiên tòa diễn ra được 1/2 ngày.



Hổng hỉu lãnh đạo Tòa án Thành phố Hà Nội có suy nghĩ khi cán bộ dưới quyền mình làm việc chẳng có "pha học" gì hít(?!)


Tạ Phong Tần



THÁI HÀ TRƯỚC GIỜ XÉT XỬ: LS HOÀNG CAO SANG BIẾN MẤT?

.

Hình trên: Ls Lê Trần Luật trước giờ đến Công an quận Gò Vấp "làm việc" theo Giấy Mời (lúc 8 giờ ngày 27/3/2009).

Bình hoa do một gia đình giáo dân mang đến tặng Văn phòng LS Pháp Quyền chiều ngày 26/3/2009.

Đã "tìm thấy" Luật sư Hoàng Cao Sang ở bên trong Tòa án. Cảm ơn Thiên Chúa!


Photobucket

Xem hình ảnh về phiên tòa mới nhất ở đây
.

26/3/09

TRƯỚC GIỜ XÉT XỬ PHÚC THẨM 8 GIÁO DÂN THÁI HÀ

.

Bị sập, bị chặn hay bị gì đó nữa thì tớ đếch biết.

24/3/09

ĐÍNH CHÍNH

.

Tôi hết sức bất bình khi được biết trên X-Cafe có đăng 1 bức thư đề họ tên và địa chỉ mail của tôi.

Trước tiên tôi cảm ơn những bạn không quen đã viết thư hỏi thăm tôi.

Tuy nhiên, tôi xin được phép đính chính:

Bức thư ấy không phải của tôi. Mọi người đều biết là hình ảnh của tôi, địa chỉ mail của tôi và số điện thoại của tôi trên mạng có tùm lum. Vài nội dung trong thư ấy tôi đã có kể cho nhiều người quen nghe, thậm chí viết kể rõ trên blog của tôi.

Cho đến lúc này (23h30 phút ngày 24/3/2009) tôi đang blogging bình thường. Thư đề họ tên tôi, nếu tôi muốn đăng thì tôi cứ việc post lên blog của tôi, đâu cần phải nhờ vả đăng ở một trang khác. Cho nên, thư của tôi mà đăng ở trang khác, trong khi blog tôi không đăng thì đó là điều bất thường.

Tạ Phong Tần

23/3/09

DÌ TÔI

.

Bài bút ký này của anh Võ Dắc Danh đã đăng trên báo Văn Nghệ số 21-2001 ngày 9/8/2001. Lâu lắm rồi tôi cũng đã quên mất nó, hôm nay tình cờ nhìn thấy có ai đó gõ lại đăng trên trang Trắng Đen nên tôi copy lại xem chơi chớ không hy vọng vào một sự công bằng hay một điều gì tương tự.

Tôi là người được đào tạo trong nước sau năm 1975, tôi đã từng rất tin tưởng vào những gì được học ở trường. Năm 1986, sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, tôi đã làm hồ sơ xin thi vào trường Sĩ quan Lục quân 2- Khoa Hải quân nữa cơ, nhưng người ta trả lời "Hải quân không nhận nữ" nên tôi đành cắp vở sang học trường Đại học Pháp Lý Hà Nội mà trong lòng luôn ấp ủ giấc mơ được lắc lư trên con tàu mang dòng chữ "Hải Quân Việt Nam", lướt trên đầu sóng ngọn gió canh giữ biển khơi.

Ông Tạ Vĩnh Cư trong bài báo là bác ruột của tôi, tôi gọi là bác Ba. Bà Dương Thị Cư là là dì ruột của anh Võ Dắc Danh. Cha tôi mất sớm, tôi không biết gì về câu chuyện đời của bác Ba tôi, không biết những người được gọi là "đồng chí" của bác tôi đã đối xử với bác tôi như thế nào cho đến khi tôi đọc bài báo của anh Danh. Bác tôi đã mất năm 2001 sau thời gian dài chống chọi với bệnh tật trong thiếu thốn.

Anh Danh nói đúng, "cuộc đời có những sai lầm vô phương chữa", nếu tôi biết câu chuyện này sớm hơn thì cuộc đời tôi đã rẽ sang hướng khác...


Tạ Phong Tần

* * *

Dì tôi
Bút ký Võ Đắc Danh

"Dì Sáu tôi có nghề thiến heo,
Thiến chưa rồi đứt chỉ chết queo"

Hồi ấy mấy anh em tôi thường hay núp sau cánh cửa hô lên đồng thanh như vậy khi thấy dì Sáu Bèo xuất hiện ngoài đường với tiếng kèn thiến heo vang lên từ tay dì những tiếng tít te . . . tít te . . . Có lần bà ngoại tôi xách chỗi chà rượt chúng tôi: Đồ con nít quỷ, nói hỗn không sợ dì Sáu bây buồn.

Nhưng dì Sáu tôi không buồn, dì gỡ cây chỗi trên tay ngoại tôi rồi nhìn chúng tôi cười, nụ cười ngọt ngào và đôn hậu. Dì ngồi xuống bộ ván gõ, nêm cho ngoại tôi mấy miếng trầu, nói vài câu chuyện rồi lại ra đi, tiếng kèn tít te, tít te lại vang lên trong xóm. Dì thường mặc bộ bà ba đen, đội nón lá, tóc bới tròn như trái cam, chân đi dép Nhật, dáng đi nhanh nhẹn, gọn gàng. Tay phải cầm chiếc kèn cứ bóp lia bóp lịa. Tít te, tít te. Trên vai dì quảy cái túi nải nhỏ, trong đó có mấy món đồ nghề gồm dao mổ, thuốc sát trùng, kim, chỉ khâu, tiền bạc và vài món tư trang. Khi có ai gọi thiến heo Sáu ơi thì dì ghé vào, chỉ trong tích tắc, con heo la lên vài tiếng thất thanh là mọi việc đã xong. Dì nhét tiền vào túi nải rồi lại ra đi, những tiếng kèn lại vang lên trong xóm. Hồi ấy dì khoảng bốn mươi tuổi. Một lần tình cờ nghe những mẩu đối thoại thì thầm giữa dì với mẹ tôi trong nhà bếp, tôi mới biết dì Sáu tôi chính là Việt cộng nằm vùng. Còn dượng Sáu tôi thì đang ở tù ngoài Phú Quốc.

Từ đó tôi không còn trêu chọc dì bằng những câu hát đồng dao nữa. Và khi lớn lên, đi góp nhặt những mẩu chuyện đời qua những tiệc tùng trong họ hàng thân tộc, tôi đã chép lại thành câu chuyện sau đây. Dì Sáu tôi tên thật là Dương Thị Cư, nhưng không nghe ai gọi dì là Sáu Cư mà chỉ gọi là Sáu Bèo. Cái tên cúng cơm ấy đã gắn cuộc đời dì như bọt bèo sông nước. Dì với mẹ tôi là chị em con cô con cậu, dì vai chị nhưng nhỏ hơn mẹ tôi năm tuổi. Trong thân tộc tôi có ít nhất là ba mươi người đàn bà mang nỗi bất hạnh của chiến tranh, như mẹ tôi chẳng hạn, mẹ tôi bị mất đi người chồng và hai người con trai lớn, nhưng bù lại bà được Nhà nước trao tặng danh hiệu Bà Mẹ Việt nam anh hùng. Mỗi gia đình có một câu chuyện bi kịch khác nhau, nhưng câu chuyện gia đình dì Sáu Bèo cứ ám ảnh tôi nhiều nhất. Theo mẹ tôi kể, dì lấy chồng hồi năm hai mươi tuổi, không hiểu duyên số nào sắp đặt mà cả hai vợ chồng lại cùng thứ cùng tên - ông Sáu Cư, Tạ Vĩnh Cư.

Đám cưới chưa được bao lâu thì dượng Sáu tôi đi tập kết. Trong những thước phim tư liệu quay cái cảnh chia ly đầy nước mắt ở bến sông Ông Đốc có hình ảnh dì Sáu tôi úp mặt rung rung trên chiếc khăn rằn. Trong thời kỳ hoạt động bí mật, dì làm cán bộ giao liên văn phòng liên tỉnh ủy miền Tây. Nhiệm vụ chính của dì lúc bấy giờ là chèo ghe đưa ông Tư Bình - tức ông Vũ Đình Liệu, bí thư liên tỉnh - đi hoạt động công khai trong vùng kềm của giặc từ sông Hậu, Ngã Bảy đến Cà Mau, Rạch Gốc, Ông Trang...

Ông Tư Bình đóng vai ông thầy thuốc Bắc, trong ghe có đủ các loại thuốc thang và cao-đơn-hoàn-tán. Dì Sáu tôi nhỏ hơn ông gần hai mươi tuổi nên không biết đóng vai gì cho phù hợp, vai vợ thì quá nhỏ, vai con thì quá lớn. Cuối cùng hai người nghĩ ra cách, hễ gặp giặc thì dì nói dì là em vợ đi rước anh rể về trị bệnh cho bà nội. Nhiều lần đi qua đồn giặc, lính đồn gọi ông Tư Bình lại nhờ khám bệnh, ông giả vờ khám rồi đoán mò và hốt cho chúng vài thang thuốc, căn dặn đôi điều như một ông thầy chuyên nghiệp rồi lại ra đi, bọn lính rối rít cảm ơn. Khi Đường lối Cách mạng miền Nam ra đời, dì Sáu Bèo được giao nhiệm vụ vận chuyển tài liệu cho các cơ sở Đảng trong vùng tạm chiếm. Dì nghĩ ra cách giấu tài liệu trong những đòn bánh tét giả rồi để chung với các loại bánh thật cùng với trái cây, nhang đèn như một người đi đám cúng cơm. Cứ thế, Đường lối Cách mạng miền Nam được dì chở đi khắp các cơ sở Đảng trong vùng để góp phần làm nên ngày Đồng khởi.

Có lần đi qua Khâu Bè - Giáp Nước, gặp bọn lính sư đoàn 21, chúng cặp xuồng lại chọc ghẹo và lấy bánh ăn, dì với cô Ba Lộc và cô Năm Nga đã lanh trí ứng xử bằng cách ném các loại bánh khác cho chúng và giựt những đòn bánh tét trở lại, dì nói với bọn lính: Con rễ gì mà hỗn quá, bánh nầy chưa cúng ông bà, không có được ăn, rồi dì xô xuồng ra, rủ chúng chèo đua với điều kiện là các anh chèo kịp em thì tụi em sẵn sàng làm vợ. Nhờ mưu kế ấy mà những đòn bánh tét không lọt vào tay giặc. Ba người lách sang một cua quẹo rồi nhảy lên bờ, ôm tài liệu chạy vô rừng. Bọn lính nghi ngờ bắn theo mấy phát súng rồi thôi.

Năm 1962, dì Sáu tôi chuyển sang làm công tác kinh tài của tỉnh Cà Mau cũng là lúc vợ chồng dì sum họp. Ông Sáu Cư vượt Trường Sơn về Nam với cấp hàm thượng úy, ông được bổ nhiệm làm tiểu đoàn phó Tiểu đoàn U Minh II. Ông Sáu Cư là một sĩ quan phong độ, lại có tài đánh giặc, ông chỉ huy trận nào là thắng gọn trận đó, quân lực lại ít hy sinh, vì vậy mà ông sớm nổi tiếng và được nhiều người ngưỡng mộ. Chẳng bao lâu, ông được thăng chức lên phó ban, rồi trưởng ban tác chiến của Tỉnh đội Cà Mau. Tuy nhiên, bên cạnh cái tài đánh giặc, ông Sáu Cư lại là con người độc đoán và cao ngạo, dường như ông chẳng biết nể nang ai dù là những người đang ở những cương vị bắt buộc ông phải tuân thủ phục tùng.

Cuối năm 1967, tại căn cứ Xẻo Lá, ông TH - một trong những người lãnh đạo của tỉnh mà tác giả xin miễn nêu tên - đang triển khai kế hoạch tổng tấn công thị xã Cà Mau vào dịp Tết Mậu Thân, cả hội trường đang im lặng lắng nghe thì bất thần Sáu Cư đứng lên hỏi: Xin đồng chí cho biết mục tiêu của trận đánh nầy là gì để tôi lập phương án tác chiến cho phù hợp. Nếu đánh để chiếm Cà Mau thì phương án khác, còn đánh để làm suy yếu kẻ thù rồi rút lui thì sẽ có phương án khác chớ không thể nói chung chung mà không có mục tiêu được. Bị hỏi bất ngờ, ông TH chỉ tay vào mặt Sáu Cư nói: Tôi bảo đánh là đánh chớ không được hỏi lại. Sáu Cư nói: Con c… , vậy thì anh chỉ huy đánh đi! Nói xong, Sáu Cư bỏ ra ngoài, cả hội trường ngơ ngác.

Sau cuộc họp ấy, ông bị đưa vào trại kỷ luật của tỉnh đội.

Ở đây tôi không bàn về chuyện Mậu Thân, vì đó là công việc của các nhà làm sử. Tuy nhiên, thắng hay bại của từng trận đánh là điều bình thường của chiến tranh. Nhưng điều phiền hà cho Sáu Cư là sau Tết Mậu Thân, người ta trút cơn giận lên đầu ông, người ta cho rằng ông là CIA nên mới để cho kẻ thù phá vỡ kế hoạch của từng cánh quân giải phóng. Thế là Sáu Cư bị giải từ trại kỷ luật sang trại tù binh ngụy ở Kiến Vàng. Dù là vô tình hay cố ý, cái tin ông Sáu Cư làm tình báo CIA bị bắt giam cứ ngày một rộng ra làm cho chính quyền ngụy và quân đội Mỹ hiểu rằng có một nhân viên CIA bị Việt cộng bắt giam cần phải ra tay giải thoát.

Tháng 3 năm 1969, một tiểu đoàn biệt kích Mỹ được trang bị trực thăng và tàu chiến, nửa đêm đột nhập vào trại tù binh Kiến Vàng để giải tỏa cho Sáu Cư. Viên chỉ huy bước vào trại giam lễ phép hỏi: Xin lỗi các chiến hữu, ở đây ai tên là Tạ Vĩnh Cư? Sau khi Sáu Cư lên tiếng, hắn nói: Xin chào ông, chúng tôi đến đây để giải thoát cho ông, bắt đầu từ bây giờ, ông sẽ được đối xử theo luật quốc tế, xin mời ông xuống tàu cùng đi với chúng tôi. Còn tất cả các chiến hữu hãy lên trực thăng để về vùng tự do. Sáu Cư ngơ ngác theo chúng xuống tàu, chiếc tàu chiến được trực thăng bảo vệ bằng róc-két phóng rạp hai bên bờ sông cho đến khi về tới chi khu Hải Yến. Sáu Cư được chúng đưa lên đó tắm rửa, thay quần áo, nghỉ ngơi, ăn uống hai ngày như thượng khách. Sáng ngày thứ ba, chúng đưa ông xuống tàu ra Cà Mau, đến ở trong một căn phòng sang trọng tại trung tâm quân sự Cao Tắng.

Suốt cả tuần lễ ở đây, bọn sĩ quan ngụy cứ dạ dạ vâng vâng tận tình phục vụ ông như một người khách quý mà chẳng hề hỏi ông một câu nào gọi là có ý khai thác. Một hôm, có một tên sĩ quan cấp tá đến báo tin cho ông biết rằng ông sắp được chuyển về Sài Gòn và hỏi ông có cần gặp vợ con không, ông nói rằng ông rất muốn gặp, hắn hứa rằng hắn sẽ cố gắng giúp ông. Về phần dì Sáu tôi, sau khi chồng bị giam vào trại tù binh Kiến Vàng, dì được tổ chức phân công ra hoạt động hợp pháp ở Cà Mau. Nhưng thật ra đó là một giải pháp để người ta đưa dì ra khỏi vùng căn cứ bởi vì hoạt động nội thành mà không có liên lạc được với ai. Buồn chán, dì ẳm đứa con trai đầu lòng mới lên hai tuổi về quê cất nhà ở vùng ven thị xã.

Khi nghe tin trại giam Kiến Vàng bị giải tỏa, dượng Sáu tôi được đưa về trung tâm Cao Thắng, dù không biết thực hư như thế nào, dì cũng cố dò la tin tức và tìm mọi cách đến thăm. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên là lúc dì tìm đến thăm cũng là lúc bọn sĩ quan ở đây cũng đang tìm mọi cách để giúp ngài Sáu Cư gặp vợ con. Thế là, để chúc mừng cho cuộc hội ngộ nầy, một tên sĩ quan đã chụp tặng vợ chồng ông một bức ảnh. Cuộc gặp gỡ cũng chẳng lý giải được điều gì, cả hai người cũng nhận định rằng đây là một sự hiểu lầm nào đó của cả bên địch lẫn bên ta. Mấy ngày sau, ông được đưa lên máy bay về Sài Gòn, lại được đối xử đàng hoàng như thượng khách. Ông cũng chẳng biết nơi ấy là đâu.

Một hôm, có một viên đại tá đến chào ông, hắn tự xưng hắn là Tổng cục phó tình báo Việt Nam Cộng hoà. Cuộc thẩm vấn bắt đầu, ông không thể nào hiểu nổi những điều mà hắn đặt ra. Ví dụ như hắn hỏi ông cộng tác với CIA từ lúc nào? Người ông trực tiếp quan hệ là ai? Đến lúc nầy cả hai mới ngớ ra. Ông thì ngớ ra rằng chúng đã lầm ông với một người cùng tên nào đó. Còn hắn thì ngớ ra rằng hắn đã uổng công với một tên Việt cộng nòi khi ông đã nói rõ về thân thế của ông. Song, sau vài phút ngớ người, hắn thấy rằng đây là một miếng mồi ngon nên chuyển ông sang Trung tâm chiêu hồi để giở trò dụ dỗ. Ngày sau ông được tiếp xúc với một tên sĩ quan tâm lý chiến thuộc loại cáo già. Hắn nói rằng Cộng sản đã đối xử với ông như thế thì không có lý do gì ông không quay lại trả thù, rằng nếu ông chịu hợp tác thì hắn sẽ thăng cho ông vượt lên hai cấp, nghĩa là từ thượng úy lên hàm thiếu tá, chức vụ tiểu đoàn trưởng. Hắn sẽ cấp cho ông một tiểu đoàn tinh nhuệ nhất với đầy đủ phương tiện khí giới để ông kéo quân về dưới mà tha hồ trả thù những kẻ đã ám hại ông... Sáu Cư hẹn trả lời hắn trong ba ngày.

Suốt ba ngày ấy ông có đủ thời gian suy nghĩ. Ông căm giận những người đã hại ông lắm chớ! Nhưng vì họ mà đứng về phía giặc để trả thù thì mình trả thù ai đây? Đảng của mình, đồng bào mình, bà con làng xóm mình, vợ mình, con mình... tất cả là của mình. Không thể vì sự căm giận nhỏ nhen mà quay lưng với tất cả. Ba ngày sau, ông trả lời với hắn rằng ông chán cảnh đánh nhau, ông muốn trở về làm một người nông dân để được sống an nhàn với vợ con. Hắn gia hạn cho ông suy nghĩ thêm một tuần. Và một tuần sau ông cũng trả lời như thế. Hắn doạ nhốt ông, ông cũng trả lời như thế. Ngày sau, chúng đưa ông lên chiếc xe tù và giải ông xuống Cần Thơ. Ở trại giam Cần Thơ sáu tháng, chúng đày ông ra Phú Quốc.

Năm 1973, ông được trao trả tù binh theo Hiệp định Paris. Nhưng khổ thay, những người bạn tù của ông thì còn đường tìm về đồng đội cũ, còn ông thì biết tìm ai? Ông tìm về với vợ con. Dì Sáu tôi ngày ngày với chiếc kèn tít te tít te đi thiến heo khắp đầu làng cuối xóm. Ông lặng lẽ ở nhà với tâm trạng ngổn ngang. Ông giữ cái THẺ CĂN CƯỚC TÙ BINH CỘNG SẢN VIỆT NAM của Bộ Quốc phòng ngụy với hy vọng một ngày nào đó gặp lại những đồng đội cũ, may ra nó chứng minh được thân phận của mình để cùng nhau xếp lại quá khứ mà vươn đến tương lai.

Nhưng rồi hai năm sau, ngày miền Nam giải phóng thì cũng là ngày ông bị đưa đi cải tạo cùng với những tên sĩ quan và tề ngụy Sài Gòn! Dì Sáu tôi chạy đi khóc lóc kêu oan khắp nơi, kể cả những người lãnh đạo cũ, người ta nói rằng đây là chuyện bí mật của ngành an ninh, cần phải có thời gian điều tra làm rõ. Mấy năm đầu ông bị giam trong khu chấp pháp, một nhà tù của chế độ cũ ở gần trường học phường Năm, lúc ấy thằng Dũng con trai ông đã học lớp bốn, lớp năm tại trường nầy. Thỉnh thoảng tôi nhìn thấy nó vào những buổi chiều tan học, nó đứng miết ngoài hàng rào kẽm gai nhìn vô nhà giam mà nước mắt nó rưng rưng.

Chị Huỳnh Thanh Hương - một người bà con xa với tôi - là giáo viên dạy lớp Năm của Dũng nhiều lần nhìn thấy Dũng đứng lặng như thế khi chị đạp xe về muộn, con đường đã vắng bóng học trò, chị dừng lại hỏi thì Dũng chỉ khóc. Hôm sau chị đến trường mở lý lịch Dũng ra xem thì chỉ thấy một dòng ngắn gọn: Cha Tạ Vĩnh Cư, đang học tập cải tạo không rõ lý do. Chị đem chuyện ấy hỏi tôi, tôi kể cho chị nghe, chị đã khóc. Từ đó, chị dành hết tình cảm cho Dũng, những buổi chiều về thấy Dũng đứng ngoài hàng rào trại giam như thế thì chị dừng xe lại dỗ dành và đưa Dũng về nhà.

Sau khi trại giam Cây Gừa ở Bạc Liêu được xây dựng, ông Sáu Cư được chuyển về đó mấy năm. Đến năm 1982, ông được thả về với cái giấy tạm tha. Tạm tha cũng có nghĩa là sẽ bị bắt lại, người cai tù nói với ông như thế để ông đừng hòng kiện cáo. Mà ông nào có kiện cáo với ai, gần mười lăm năm ông như quả bóng chuyền của hai đối phương cứ ném qua ném lại hai bên giềng lưới, cuối cùng ông bị giăng ra lề sân cỏ khi thân phận đã nhão nhừ. Ông bị bệnh tê thấp, bị phù thủng khắp người, tinh thần cũng không còn để đi tìm chân lý.

Một lần ông tìm ra Tỉnh đội để hỏi Bộ chỉ huy về tình cảnh của mình. Người ta hứa với ông rằng chuyện của ông rồi sẽ được minh oan, mọi quyền lợi rồi sẽ được phục hồi trở lại, tạm thời ông hãy yên tâm về nhà dưỡng bệnh. Sau đó người ta viết cho ông cái giấy giới thiệu về địa phương nói rằng ông là bộ đội phục viên, trong thời gian chờ đợi giải quyết chính sách, yêu cầu chính quyền địa phương tạo điều kiện thuận lợi cho ông sinh sống.

Cái nghề thiến heo không còn nuôi sống được gia đình, dì Sáu tôi chuyển sang làm vườn, trồng chuối, xê-ri và các loại rau cải hàng ngày mang ra chợ bán. Ông Sáu Cư vừa hết chứng phù thủng thì chuyển sang tai biến mạch máu não, nằm liệt mấy năm trời. Dì Sáu tôi phải vừa nuôi bệnh, nuôi thằng Dũng học hành, cuộc mưu sinh gói tròn trong những thúng rau. Quỹ thời gian không đủ để lo cho hiện tại thì lấy gì để lo cho những chuyện đã qua, mà lại là những chuyện ngoài sức vóc của một người đàn bà thiếu chữ nghĩa, sức yếu thế cô.

Cuộc sống cứ thế xoay vần, vật đổi sao dời, kẻ trở về với đất, người trở lại đời thường, người khác lo con đường thăng quan tiến chức . . . ai để tâm nhớ đến những lời hứa suông cho qua chuyện -lại là chuyện phiền hà cần phải cố quên. Ngay cả trong họ hàng thân tộc, chuyện của ông Sáu Cư từng là chuyện thời sự trong tiệc rượu, tiệc trà, đám cưới, đám giỗ, đám tang. Nhưng từ khi ông ngã bệnh, không còn lui tới họ hàng, những người già lần lượt qua đời hoặc không còn khả năng tụ họp trong những lúc có tiệc tùng thì với đám trẻ chuyện của Sáu Cư đã trở thành chuyện cũ, người ta thích nghe những chuyện mới hơn. Vì thế mà chuyện của ông cũng đi vào quên lãng.

Đầu tháng bảy năm nay, bất chợt tôi vác máy ảnh tìm đến ông sau nhiều năm không gặp. Một căn nhà khiêm tốn nằm trong một khu vườn khiêm tốn ven quốc lộ 1A đoạn nối dài xuống Năm Căn, cách thành phố Cà Mau chừng năm cây số. Ông năm nay đã bảy mươi hai tuổi rồi, già cộng với tai biến cuộc đời, tai biến mạch máu não đã làm cho ông trở thành một con người lụm khụm, không còn nghe thấy gì nữa. Dì Sáu tôi phải dìu ông từ trong buồng ra ngoài với từng bước đi loạn choạn. Thằng Dũng bây giờ đã có vợ hai con, cất nhà ra riêng cặp lộ xe làm nghề sữa đồ điện tử.

Tôi hỏi thăm đời sống, dì Sáu tôi nói nhờ nối dài quốc lộ, đất lên giá, dì cắt nền ra bán được vài chục cây vàng, xây lại căn nhà và chừa chút đỉnh dưỡng già, cũng đở. Tôi nhìn lên vách thấy có tấm Huân chương kháng chiến hạng Nhì của Chủ tịch nước Trần Đức Lương tặng cho bà Dương Thị Cư vì đã cóthành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Dì lấy cho tôi xem quyển sách truyền thống lịch sử của ngành Giao - Bưu - Vận tỉnh Cà Mau, trong đó có mấy trang kể lại chuyện ngày xưa dì chở ông Vũ Đình Liệu đi hoạt động công khai, chuyện dì vận chuyển Đường lốiCách mạng Miền nam trong đòn bánh tét.

Thấy dì đang vui nên tôi không dám hỏi thăm về chuyện cũ, khi mời hai ông bà ra chụp ảnh, tôi chỉ nói dối rằng để dành khi hữu sự. Ngay cả khi ngồi viết lại câu chuyện nầy, tôi cũng không có ý đấu tranh để đem lại cho gia đình dì Sáu tôi một sự công bằng, bởi vì điều ấy nếu có thì nó đã có từ lâu. Mười tám năm trước, khi dượng Sáu tôi mới ra tù, tôi còn nghĩ tới điều ấy. Nhưng sau mười tám năm lăn trải với những va chạm trong đời, tôi đã hiểu rằng, cuộc đời có những sai lầm vô phương chữa.

Võ Đắc Danh

22/3/09

ĐI HỌC TIẾNG TRUNG QUỐC ANH EM ƠI!

.
Trung Hoa quán ở Bảo Lâm (Tây Nguyên)


Theo báo Công an TP HCM ngày 21/3/2009 "xử trước" VPLS Pháp Quyền bằng hình thức đóng cửa Văn phòng trong vài ngày tới, trước "nguy cơ thất nghiệp" cận kề, tớ thấy cần phải "lo lắng" cho tương lai của bản thân mình.

Làm gì bây giờ đây? Thiên hạ trên mạng đang nháo nhào kêu gào "NO TRUNG QUỐC", "NO BAUXITE", "SOS TÂY NGUYÊN"; còn "phe ta" thì bảo rằng làm bauxite ở Tây Nguyên là "chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước". Đã là phận con dân thì "chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước" là phải nghe theo, nếu cãi lại, ý kiến ý cò này nọ coi chừng bị quy cho là "thành phần chống phá" thì thậm chí nguy, chí nguy. Vì vậy, tớ dự tính nếu VPLS Pháp Quyền mà đóng cửa rồi thì tớ đi học thêm một mớ tiếng Trung Quốc nữa cho rậm đám rồi lên Tây Nguyên thực hiện "chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước". Biết đâu tớ lại được Nhà nước ta tài trợ tiền học phí đi học tiếng Tàu? Mặc kệ cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu chiến binh Phạm Đình Trọng, TS Nguyễn Thành Sơn, các nhà khoa học Việt Nam hay các nhà khoa học của Liên Xô cũ có nói gì gì đi nữa thì "chủ trương lớn" phải được thực hiện thành hiện thực.

Nếu sau này (theo các vị có tên lẫn không tên đã liệt kê ở trên dự báo) ô nhiễm môi trường, kiệt quệ tài nguyên, con dân nước Việt cõng nhau sang Bắc Kinh kiện cáo giống như hiện giờ người ta đang kiện các công ty hóa chất Mỹ về chất độc màu da cam, hay Tây Nguyên trở thành "khu tự trị Trung Quốc" thì đó cũng là chiện tương lai xa vời. Lúc đó tớ đã "hạ cánh an toàn" hay đã "no cơm ấm cật", đã "tiêu diêu miền cực lạc", còn bọn trẻ đời sau có trả giá, trả hẹ gì cũng kệ tía chúng nó, hơi đâu mà lo cho mệt.

Tạ Phong Tần

.
.

19/3/09

"ĐỪNG QUĂNG CỦA THÁNH CHO CHÓ"

.

"Của Thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em" (Mt 7, 6).

Của Thánh tức Máu Thánh và Thánh thể Chúa Giê-su, là Tình Yêu của Chúa Giê-su ban cho con người, là Đức Tin của tín hữu đối với Thiên Chúa Ba Ngôi. Với con chó, bánh đơn giản chỉ là bánh bột vị nhàn nhạt để ăn cho no bụng, rượu đơn giản chỉ là chất lỏng lên men nồng nồng, đăng đắng, say say; còn với người Công giáo thì rượu và bánh chính là máu, là thịt Chúa Giê-su Ki-tô. Những điều thiêng liêng ấy chó (con vật) làm sao có thể cảm nhận được. Chó chỉ biết ăn và sủa, cắn theo ý chủ thôi. Mà thức ăn của chó thì "phước chủ may thầy", gặp chủ hiền lành nhân từ thì cho chó ăn sạch sẽ, cơm trắng cá tươi ngon lành; gặp chủ bất nhân thì nuôi chó chỉ để dọn phân cho trẻ và tối tối sủa nhắng nhít cho vui mà thôi. Cho nên, của Thánh mà đem quăng cho chó ăn, cho chó uống là điều sai lầm, phí phạm lớn.

Heo là loài vật nuôi suốt ngày ủn a ủn ỉn trong chuồng, được cho ăn cám, ăn bèo, ăn cơm thừa canh cặn cũng đủ thỏa mãn nhu cầu sinh tồn, đâu biết phân biệt thế nào là viên ngọc trai quý giá với viên ngói sứt từ góc chuồng heo rớt ra, nên có liệng viên ngọc trai giá trị liên thành vào cho heo thì heo cũng giẫm đạp dưới chân, cắn viên ngọc nhì nhà nhì nhằng như cắn viên gạch ngói cho đỡ ngứa răng, lúc đói cắn mãi mà ăn không được thì heo ta điên tiết lên dám cắn cả người nào dám lại gần chúng mà không mang thức ăn cho chúng.

Người xưa bảo rằng: "Long lanh tiếng ngọc, ngân nga lời vàng" tức lời nói hay, lời nói phải quý giá như vàng ngọc. Lời cảnh báo trên của Chúa Giê-su hàm ý những lời nói hay chỉ nên nói với người biết lắng nghe, còn hạng súc sinh ngang ngược, sức dài vai rộng, cậy chân dài răng khỏe, cậy đàn đông đúc như bầy linh cẩu thì ta có nói nhiều cho lắm cũng không thấm vào đầu óc chúng, giống như "nước đổ đầu vịt", "đàn gảy tai trâu" mà thôi. Linh cẩu cho dù có lúc chúng chiếm cả đồng cỏ, đuổi sư tử chạy đi nơi khác nhưng ngàn đời chúng vẫn là linh cẩu không bao giờ thay đổi, lý lẽ với chúng chẳng ích gì. Nói lắm mất công hao hơi tốn sức mà có khi lại bị chúng quay lại "cắn" vì chúng cho rằng ai cũng phải sủa gâu gâu hay kêu eng éc giống chúng. Cho nên, với loại ấy thì chúng ta chả cần phải tranh luận, lý giải gì nhiều, cứ để mặc cho chúng muốn sủa, muốn kêu thế nào thì cứ kêu, cứ sủa thoải mái. Tai liền miệng tự sủa, tự kêu thì tự nghe đến khi nào chúng kêu, sủa chán thì chúng tự nín thôi, ta không cần phải bận tâm làm gì cho mệt.

"Đức Giê-su gọi đám đông lại mà bảo: "Hãy nghe và hiểu cho rõ: Không phải cái vào miệng làm cho con người ra ô uế, nhưng cái từ miệng xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế" (Mt 15, 10, 11). "Ngậm máu phun người trước dơ miệng mình", kẻ nào phun ra những lời ô uế , dơ bẩn thì kẻ đó đã tự phơi bày cho người khác thấy cái văn hóa ô uế của y.

"Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy" (Lc 13, 24). Sự sống ở đây không đơn thuần là tồn tại dưới hình thức vật chất, vì không có vật chất nào không theo quy luật: sinh ra, lớn lên và bị tiêu diệt; sự sống ở đây chính là cõi vĩnh hằng, là khi bạn đã chết rồi nhưng với mọi người xung quanh, bạn chưa từng chết, bạn không bao giờ chết, bạn tồn tại trong mỗi trái tim.

Tạ Phong Tần
.

16/3/09

AI CÓ ĐỘNG CƠ HẰN HỌC?

.

Photobucket

Photobucket

Photobucket

Photobucket


"Vinh danh Thiên Chúa trên Trời
Bình an dưới thế cho người Thiện Tâm"

.

12/3/09

NÓI DỐI QUEN MỒM

.
Sáng nay (12/3/2009), tôi đang bị bệnh nằm một chổ thì 7 giờ 22 phút đã có số máy lạ nhắn tin đe dọa từ số sim khuyến mãi trả trước (84) 1219859462: “Tui bay la lu che de chet me may di” (Tụi bây là lũ chó đẻ chết mẹ mày đi). Chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra thì có người quen nhắn tin bảo mua báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh số ra ngày Thứ Năm (12/3/2009). Đọc báo mới thấy “công nghệ dựng đứng” của tác giả ký tên là “nhóm PV” (tức nhóm phóng viên) này rất là “siêu đẳng”.

Tôi đang mệt nên không đủ sức khỏe ngồi gõ bàn phím phân tích nhiều, chỉ dẫn chứng mấy ý chính mà báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh số ra ngày Thứ Năm (12/3/2009) đã viết như sau:

- “Tạ Phong Tần - kẻ tự xưng là nhân viên Văn phòng Luật sư Pháp Quyền”:

Tôi có “tự xưng” như báo CAPTHCM rêu rao hay không mời mọi người cứ xem Giấy ủy quyền ngày 19/6/2008 của VPLS Pháp Quyền và Giấy triệu tập đương sự của TAND quận 9 ngày 26/2/2009 (bên dưới) công nhận Tạ Phong Tần là nhân viên- người đại diện cho Văn phòng Luật sư Pháp Quyền, các loại Giấy mời của Công an quận Gò Vấp gởi cho tôi đều đề địa chỉ VPLS Pháp Quyền (30 đường số 3, căn cứ 26B, P7, GV) thì biết ngay ai là kẻ tiếm danh, nói dối trơ trẻn.

- “Các nhân viên có mặt ở Văn phòng bất hợp tác”:

Thi Hành Án Gò Vấp đến Văn phòng nếu muốn nhận tiền thì nhân viên Văn phòng đưa tiền, muốn kê biên lấy tài sản thì kê biên lấy tài sản, nếu nhân viên Văn phòng có chống cự hay bất hợp tác gì đó chắc chắn bà Chấp hành viên Nguyễn Thị Hạnh đã lập biên bản vi phạm hành chính rồi (bà Hạnh có đủ thẩm quyền), báo CA TPHCM nói như thế hóa ra là chê bà Nguyễn Thị Hạnh không biết cách làm việc hay sao?

- “Lê Trần Luật cử nhân viên đi năn nỉ cơ quan thi hành án cho đóng số tiền 42 triệu đồng nợ Công ty Huy Hồng”:

Ông Luật có “cử nhân viên đi năn nỉ cơ quan thi hành án” hay không mời xem Thông báo số 267/THA ngày 27/2/2009 của Thi hành án Gò Vấp (sau ngày kê biên 2 ngày), trong đó ghi rõ đề nghị VPLS Pháp Quyền đến Thi Hành Án nộp tiền trong thời gian 7 ngày kể từ ngày nhận thông báo. Gởi Thông báo này là trách nhiệm, nghĩa vụ luật quy định của cơ quan Thi hành án. Vậy có cần phải “năn nỉ” không nhỉ?

- Văn phòng đã nhận tại tài sản vào sáng ngày Thứ Hai (9/3/2009). Cùng ngày 9/3/2009, tôi đã liên lạc với Quý Cha nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn (38 Kỳ Đồng, quận 3) nhờ Quý Cha phân phối giùm vì Văn phòng không có điều kiện kiểm tra xem ai thật sự khó khăn cần giúp đỡ. Phía nhà thờ chưa đến Văn phòng nhận máy bởi lẽ Quý Cha, Quý Thầy bận việc. Còn cả tuần nay nhân viên Văn phòng đều “được mời làm việc” với Công an suốt thì lấy đâu ra thời gian để vận chuyển máy đến cho Nhà thờ? (Xem hàng loạt Giấy mời bên dưới). Nhưng cuối cùng, nhà thờ DCCT cũng đã cử ba Thầy đến VPLS Pháp Quyền để nhận tài sản.

Có tài sản đem cho từ thiện mà bị coi là “rêu rao”, “mĩa mai”, “lớn lối”… Từ nay về sau quý vị nào muốn cho tặng ai thứ gì đó phải ngó trước ngó sau dè chừng, kẻo lại mang tiếng là “rêu rao”, “mĩa mai”, “lớn lối”… đấy nhé!

- “Đơn khiếu nại vụ cưỡng chế thi hành án cũng được Chi nhánh VPLS Pháp Quyền gởi đi khắp nơi”:

Trước việc tổ chức cưỡng chế thi hành án trái quy định tại Pháp lệnh Thi Hành Án Dân Sự và Nghị định 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 của Chính phủ, VPLS chỉ mới gởi duy nhất 1 đơn khiếu nại đến Trưởng cơ quan THA Gò Vấp (xem đơn và biên nhận nhận đơn bên dưới), chả biết báo CATPHCM lấy đâu ra bằng chứng để la lên rằng “Chi nhánh VPLS Pháp Quyền gởi đi khắp nơi”?

- Luật sư không có quyền hứa hẹn trước kết quả vụ việc bởi lẽ Luật sư không có thẩm quyền quyết định, thẩm quyền quyết định vụ việc kéo dài bao lâu thời gian thuộc cơ quan tố tụng hoặc cơ quan hành chính Nhà nước, báo CA TPHCM đặt ra điều kiện “Pháp Quyền không đưa ra thời hạn thực hiện hợp đồng bằng một con số cụ thể” chỉ người chưa đọc Luật Luật sư, Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự, Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự, Luật Khiếu nại- Tố cáo mới có thể nói được.

- Ngay cả khi một người phạm tội hình sự đã bị Tòa án tuyên án có hiệu lực cũng chỉ gọi là “bị án”, nếu án chưa có hiệu lực Tòa án vẫn phải gọi họ là “ông, bà, anh, chị hoặc bị cáo”, tức luôn luôn có đại từ nhân xưng đi kèm. Trong tất cả những bài viết của mình, cho dù tôi đang chỉ trích một ai đó thì tôi vẫn gọi người bị tôi chỉ trích là “ông, bà”. Gọi tên người khác trụi lủi không có đại từ nhân xưng, dùng các từ “đám”, “lũ”, “kẻ”, “bọn”, “tên” … một cách xách mé để gọi người khác thì không phải là ngôn ngữ của người có văn hóa, càng không phải là ngôn ngữ của báo chí, mà đó là là thứ ngôn ngữ gì thì người đọc có đủ thông minh để nhận xét, tôi không cần phải nói nhiều.

- Cả ngày nay những số máy này liên tục gọi đến số di động của tôi để quấy rối: 0935 033 081, 0902 797 829, 0907 098 851, 0905 919 249, 0975 163 974, 0985 272 309, 0906 422 828, 0908 191 188, 0939 107 751, và rất nhiều số máy di động sim khuyến mãi trả trước. Cái này có phải là “tổng tấn công toàn diện” hay không ấy nhỉ?

Tạ Phong Tần

Photobucket

Tin nhắn đe dọa từ số sim khuyến mãi trả trước (84) 1219859462

Photobucket

Gởi đến tôi lúc 7 giờ 22 phút ngày 12/3/2009

Photobucket

Giấy mời ngày 05/3/2009

Photobucket

Hẹn làm việc tiếp vào ngày 9/3/2009 (ghi ở mặt sau giấy mời)

Photobucket

Giấy mời ngày 10/3/2009

Photobucket

Giấy mời ngày 11/3/2009

Photobucket

Giấy Mời ngày 12/3/2009

Photobucket

Giấy mời Luật sư Lê Trần Luật ngày 3/3/2009

Photobucket

Giấy mời cô Quỳnh Nhi ngày 4/3/2009

Photobucket

Giấy mời Luật sư Nguyễn Quốc Đạt ngày 4/3/2009

Photobucket

Giấy triệu tập Luật sư Nguyễn Quốc Đạt ngày 11/3/2009

Photobucket

Giấy ủy quyền ngày 19/6/2008 của VPLS Pháp Quyền thừa nhận Tạ Phong Tần là nhân viên- đại điện VPLS Pháp Quyền khởi kiện ông Nguyễn Minh Luân- Phó CA quận 9, TPHCM

Photobucket

Giấy triệu tập đương sự của TAND quận 9 ngày 26/2/2009 công nhận Tạ Phong Tần là người đại diện cho Văn phòng Luật sư Pháp Quyền

Photobucket

Thông báo yêu cầu Văn phòng Luật sư Pháp Quyền đến nhận lại tài sản của Thi Hành Án Gò Vấp

Photobucket

Đơn khiếu nại gởi đến Trưởng THA Gò Vấp - Trang 1

Photobucket

Đơn khiếu nại gởi đến Trưởng THA Gò Vấp - Trang 2

Photobucket

Biên nhận nhận đơn khiếu nại của THA Gò Vấp

Photobucket

Giấy tặng tài sản cho nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn

Photobucket
Quý Thầy nhà thờ DCCT đã đến VPLS Pháp Quyền nhận tài sản

.